Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Theo báo cáo về thị trường TPDN trong 11 tháng năm 2019 của SSI Retail Research, tổng lượng TPDN thực tế phát hành 11 tháng đầu năm đã đạt khoảng 237.000 tỷ đồng (tương đương 10 tỷ USD), cao hơn 5,8% so với tổng lượng phát hành trong cả năm 2018.
Trong đó, các ngân hàng thương mại phát hành 94.000 tỷ đồng, chiếm 45,5% toàn thị trường; các doanh nghiệp bất động sản phát hành tổng cộng 71.312 tỷ đồng, chiếm 34,5%.
Chỉ tính riêng trong tháng 11, có 24.199 tỷ đồng TPDN được phát hành, đưa tổng lượng phát hành 11 tháng đầu năm là 206.680 tỷ đồng, bao gồm cả phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng
Trong 11 tháng năm 2019, tổng lượng TPDN thực tế phát hành 11 tháng đầu năm đã đạt khoảng 237.000 tỷ đồng (tương đương 10 tỷ USD), cao hơn 5,8% so với tổng lượng phát hành trong cả năm 2018.
Nguồn: SSI Retail Research
Tổng lượng mua sơ cấp của nhà đầu tư ngoại trong 11 tháng đầu năm 2019 là gần 14.000 tỷ đồng, chiếm gần 7% khối lượng phát hành. Trong đó, riêng tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài mua 100 tỷ đồng trái phiếu 12 tháng của Chứng khoán KIS Việt Nam và 456,7 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi kỳ hạn 4 năm của CTCP Nhựa Đồng Nai.
Theo dự báo của các chuyên gia, năm 2020 sẽ là năm mà thị trường trái phiếu lên ngôi trước những động thái siết tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Nhà nước. Không chỉ mang tới cơ hội cho các doanh nghiệp phát hành thêm trái phiếu, dòng vốn mới còn mang tới động lực để thị trường hoàn thiện chính mình.
Sự phát triển của thị trường TPDN cho thấy bước đầu có sự dịch chuyển vốn huy động từ kênh tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu, hướng tới việc phát triển cân bằng hơn giữa kênh thị trường vốn và kênh tín dụng ngân hàng, nhằm giảm áp lực huy động cho kênh tín dụng ngân hàng theo chủ trương của Chính phủ.
Tuy nhiên, theo cảnh báo của Bộ Tài chính, chính sự phát triển nhanh cũng đã tiềm ẩn những nguy cơ không an toàn đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu thông tin, kinh nghiệm… Theo ông Nguyễn Hoàng Dương - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính), mặc dù thị trường TPDN phát triển nhanh nhưng quy mô còn nhỏ so với các cấu phần khác của thị trường vốn. Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu phát hành theo phương thức riêng lẻ, khối lượng trái phiếu ra công chúng có xu hướng tăng trong 2 năm gần đây nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 3% tổng khối lượng phát hành).
Ngoài ra, một số doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư khi tham gia huy động vốn trên thị trường còn thiếu chuyên nghiệp, doanh nghiệp phát hành chưa hoàn toàn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật về công bố thông tin và quy trình phát hành, nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm đầu tư và khả năng phân tích đánh giá rủi ro. Xu hướng tăng mua TPDN của nhà đầu tư cá nhân, nhất là nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ.
Thực tế cho thấy, với đặc thù TPDN là công cụ nợ do doanh nghiệp phát hành theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn và khả năng trả nợ, mà khả năng trả nợ của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tình hình tài chính và kết quả kinh doanh, nên nhà đầu tư cần phải cân nhắc, đánh giá được rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu.
Rủi ro nhà đầu tư TPDN có thể gặp phải là: doanh nghiệp không thực hiện được các điều kiện, điều khoản của trái phiếu, không thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc, lãi trái phiếu; doanh nghiệp không thực hiện cam kết với nhà đầu tư về mua lại trái phiếu trước hạn...
Ngoài ra, rủi ro khác có thể xảy ra là các doanh nghiệp, chủ thể phát hành và tham gia thị trường sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để điều chuyển dòng tiền để tránh các giới hạn an toàn theo quy định của pháp luật chuyên ngành hoặc phục vụ các mục tiêu có lợi của doanh nghiệp. Điều này trở nên phức tạp đối với thị trường tài chính ngày càng phát triển.
Trước thực trạng bùng nổ của thị trường TPDN hiện nay, Bộ Tài chính khuyến nghị các chủ thể tham gia thị trường TPDN cần chuyên nghiệp hơn, tuân thủ đầy đủ hơn quy định của pháp luật. Cụ thể là:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp phát hành cần tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật khi huy động vốn trái phiếu, công bố công khai thông tin về tình hình tài chính, mục đích huy động vốn từ phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư.
Thứ hai, đối với nhà đầu tư cần tiếp cận đầy đủ thông tin, phân tích và đánh giá kỹ các rủi ro có thể gặp phải khi mua trái phiếu.
Thứ ba, đối với tổ chức cung cấp dịch vụ cần cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư, tư vấn cho doanh nghiệp phát hành tuân thủ đúng quy định của pháp luật khi phát hành trái phiếu.
Thứ tư, đối với cơ quan quản lý cần tiếp tục rà soát để hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm tăng cường công khai, minh bạch và có đủ chế tài để quản lý giám sá hoạt động phát hành TPDN.
Song Ngư