Khoảng trống pháp lý
Nghị định 163/2018/NĐ-CP quy định về phát hành TPDN được đánh giá mở lối cho các DN khi phát triển thêm một kênh huy động vốn để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kể từ ngày Nghị định 163 có hiệu lực, thị trường TPDN đã có những chuyển biến mới cho việc huy động vốn, tuy nhiên cũng phát sinh những vấn đề mới cho nghị định này. Gần đây, Công ty H. với vốn điều lệ chỉ 5 tỷ đồng nhưng vẫn phát hành được lượng trái phiếu lên đến hơn 1.400 tỷ đồng.
Thực tế tại các DN tư nhân Việt Nam thời gian qua, vốn đăng ký kinh doanh trong công ty thấp nhưng vay nợ rất lớn. Việc vay nợ cũng đến từ chính người chủ sở hữu công ty, hoặc người chủ dùng tài sản cá nhân để bảo lãnh cho công ty vay vốn hoạt động. Bởi lẽ Nghị định 20/2017/NĐ-CP có quy định về chi phí lãi vay thuộc diện bị khống chế khi tính thuế thu nhập DN, là minh chứng cho thực trạng DN tư nhân không gia tăng vốn góp mà gián tiếp tài trợ nợ để trốn thuế.
Trường hợp Công ty H. với vốn 5 tỷ đồng phát hành TPDN đảm bảo bởi chính khoản đầu tư vào CP Ngân hàng A. không phải thách thức Nghị định 20, mà là vấn đề của Nghị định 163.
Điều 5 Nghị định 163/2018 quy định về nguyên tắc phát hành và sử dụng vốn TPDN là “việc sử dụng vốn huy động được từ phát hành TP phải đảm bảo đúng mục đích theo phương án phát hành”. Thế nhưng, Điều 10 quy định về điều kiện phát hành TP “công ty phải có phương án phát hành TP được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận”. Tức phương án phát hành lại không đề cập đến phương án sử dụng vốn từ đợt phát hành.
Theo đó, cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận phương án phát hành TP sẽ không thể thẩm định mục đích sử dụng vốn từ đợt phát hành. Chính vì thiếu quy định về phương án sử dụng vốn từ đợt phát hành được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, DN có thể phát hành TP dễ dàng hơn, dẫn đến việc Công ty H. vốn 5 tỷ đồng phát hành TP trị giá hơn 1.400 tỷ đồng để đầu tư CP. Điều này đưa đến trong tương lai còn có nhiều đợt phát hành TPDN cho các mục đích trả nợ, trả lãi vay…
Điều đáng quan ngại, khi một DN vay vốn trực tiếp từ ngân hàng đều phải có phương án sử dụng vốn được ngân hàng thẩm định theo quy định từ Ngân hàng Nhà nước và giám sát việc sử dụng vốn có đúng mục đích hay không.
Theo Luật Chứng khoán, một DN phát hành CP phải có phương án sử dụng vốn được cấp có thẩm quyền phê duyệt và báo cáo cấp có thẩm quyền về việc sử dụng vốn sau 6 tháng kết thúc đợt phát hành.
Thế nhưng, việc phát hành TPDN lại thiếu quy định này. Việc giám sát mục đích sử dụng vốn của cơ quan quản lý còn có mục đích bảo vệ những cổ đông nhỏ, những chủ nợ gián tiếp tài trợ vốn cho DN. Phải chăng, chủ nợ của TPDN không cần thiết phải bảo vệ?
Nhưng cơ quan quản lý giám sát mục đích sử dụng vốn còn nhằm mục đích chống rửa tiền. Ngày 30-4-2019, Chính phủ đã ký Quyết định 474/2019/QĐ-TTg, ban hành kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền giai đoạn 2019-2020, với 5 nhóm hành động trong đó đề cập đến nhóm “các sản phẩm tài chính toàn diện”. Việc sử dụng công cụ TP với lãi suất cao 20%/năm như hiện nay, liệu có khả năng là một dạng của “sản phẩm tài chính toàn diện”?
Bày binh bố trận
Cứ mỗi 2 tuần, Chính quyền Cayman Islands xuất bản công báo nhằm thông báo các DN được thành lập mới. Đọc công báo này sẽ thấy nhiều công ty được thành lập từ nhiều quốc gia và Việt Nam không ngoại lệ. Ngày càng có nhiều người Việt Nam sang quốc đảo này thành lập công ty, sau đó đầu tư ngược lại trong nước. Việc thành lập công ty tại quốc đảo này không khó khăn, nhất là việc mở tài khoản ở ngân hàng và khai báo xuất xứ nguồn gốc của tiền.
Còn ở Hồng Kông, việc mở công ty cũng khá dễ dàng, nhưng việc mở tài khoản ngân hàng không đơn giản vì phải chứng minh nguồn gốc của tiền. Việc miễn thuế thu nhập phát sinh ngoài lãnh thổ Hồng Kông đang thu hút nhiều DN đến Hồng Kông giống như chính sách tại “thiên đường thuế” Cayman Islands.
Nhiều liên doanh tại Việt Nam đều có dấu tích từ các chủ đầu tư đi qua Hồng Kông. Minh chứng là nhiều dự án đầu tư ở Việt Nam có pháp nhân là những công ty từ Hồng Kông. Tuy nhiên, đối tác từ quốc đảo Cayman được dễ giải trong việc chứng minh xuất xứ của tiền. Do vậy, dòng tiền “không minh bạch” có thể đến đảo quốc này để đầu tư vào các quốc gia khác trong lĩnh vực đầu tư gián tiếp.
Thông tin công khai trên thị trường cho thấy, nước ta hiện có 1 cổ đông của CTCP Quản lý quỹ VinaCapital là VinaCapital Investment management Limited có trụ sở tại “thiên đường thuế” Cayman, 2 cổ đông còn lại đến từ “thiên đường thuế” khác là British Virgin (BVI). Vì vậy, không xa lạ gì khi những thương vụ cơ cấu lại sở hữu của nhóm cổ đông sáng lập ngân hàng A. đều có sự tham gia từ 2 công ty SaiGon Asia Credit Limited và Vietnam Finance Limited đến từ “thiên đường thuế” Cayman.
Hiện tại, theo website của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, có 48 công ty quản lý quỹ đang hoạt động. Các công ty này đang quản lý 6 quỹ thành viên, 17 quỹ mở với 3 quỹ đầu tư vào thị trường TP và 2 quỹ ETF; 23 văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài, với 2 văn phòng đang hoàn tất hồ sơ đóng cửa hoạt động, 8 văn phòng đại diện đến từ 2 “thiên đường thuế”. Trong số này không thấy tên NĐT SaiGon Asia Credit Limited đang mua TP của Công ty H.? Vậy liệu tiền đầu tư nước ngoài có thật sự chảy vào Việt Nam? Và nếu có, nó được quản lý như thế nào? Hay NĐT này vào Việt Nam chưa được báo cáo chính thức?...
Hoạt động giao dịch thỏa thuận CP ngân hàng A. từ cổ đông sáng lập sang 4 công ty trên được giám sát từ chính quy trình lưu ký và thanh toán trên TTCK. Nhưng tiền từ giao dịch mua bán TPDN lại chưa được xác thực, liệu có trường hợp TP được ghi nhận bởi NĐT SaiGon Asia Credit Limited, nhưng tiền thanh toán được Công ty H. mượn từ “ai đó”?
Hệ lụy
Điều gì sẽ xảy ra nếu Công ty H. không có khả năng chi trả lô TP phát hành 1.400 tỷ đồng vốn gốc và 1.400 tỷ đồng lãi vay khi đáo hạn hợp đồng TP? Liệu cam kết đồng hành cùng ngân hàng A. để NĐT trên TTCK tin tưởng?
Có quan điểm khác cho rằng, Công ty H. phát hành TP đảm bảo bằng chính khoản đầu tư vào CP ngân hàng A. là hoạt động bình thường, khi áp đặt việc tăng giá từ CP ngân hàng A. sau 5 năm trên mức 20% năm. Bỏ qua điều tiên đoán này và chấp nhận giá CP ngân gàng A. sẽ tăng 20%/năm. Vậy sau 5 năm Công ty H. sẽ phải bán ra lô CP ngày hôm nay để trả nợ gốc và lãi TP. Nếu kịch bản (không tưởng) này xảy ra, CP ngân hàng A. là khoản đầu tư lời. Công ty H. nhận được khoản lợi nhuận từ hoạt động đầu tư này sau khi thanh toán nghĩa vụ nợ. Với kết cục này, đây là tái cấu trúc sở hữu và gắn bó lâu dài như cam kết?
Song một vấn đề nữa cần đặt ra: sau khi cổ đông sáng lập bán cổ phần, lượng tiền thu được 1.400 tỷ đồng sẽ đi đâu về đâu? Sau 5 năm, giả sử Công ty H. không có tiền thanh toán khoản lãi vay 20%/năm trả 1 lần lúc đáo hạn, nghĩa là số tiền phải trả lên đến 1.400 tỷ đồng cho trái chủ SaiGon Asia Credit Limited.
Liệu có khả năng ai đó đã bán CP ngận hàng A. cho Công ty H. ngày hôm nay, sẽ cho chính Công ty H. mượn trở lại 1.400 tỷ đồng để thanh toán lãi vay? Nói cho dễ hiểu đây chỉ là “lấy tiền từ túi phải trả cho túi bên trái”.
SaiGon Asia Credit Limited sẽ mua vào ngoại tệ và chuyển về quốc đảo Cayman. Từ quốc đảo này, tiền sau đó sẽ chuyển về cho người nào đó. Hoạt động này thuận tiện đôi đường, ai đó đã có một khoản tiền đã được hợp thức hóa ở nước ngoài thay vì ở Việt Nam.
Liệu tiền đã được xử lý theo một phương thức gọi là “sản phẩm tài chính toàn diện”? Phần này mới là thanh toán lãi vay. Sau đó, do phía Công ty H. vẫn không thể thanh toán được vốn gốc nên đã chuyển quyền sở hữu CP ngân hàng A. cho SaiGon Asia Credit Limited, bất chấp giá CP ngân hàng A. lúc đó tăng giá lên bao nhiêu lần. Cổ đông SaiGon Asia Credit Limited đạt được mục tiêu vào Việt Nam đầu tư dài hạn với một dạng hợp đồng phái sinh hoán đổi tài sản tự tạo.
Kết thúc thời gian đầu tư, SaiGon Asia Credit Limited sẽ bán CP này ra thị trường một cách lặng lẽ và chuyển tiền về Cayman. Lượng tài sản này ra khỏi Việt Nam, hòa vào dòng tiền hợp pháp của nền kinh tế thế giới. Dòng tiền sau khi đã được xử lý ở tầm quốc tế có thể sẽ quay trở lại Việt Nam một lần nữa, và cứ thế đầu tư cho những khoản đầu tư sinh lời khác. Vậy là dòng tiền đã trở nên đa dạng hóa tầm quốc tế thay vì tập trung tài sản trong một quốc gia.
Việc Công ty H. vốn 5 tỷ đồng phát hành TP trị giá hơn 1.400 tỷ đồng để đầu tư CP, đưa đến trong tương lai còn có nhiều đợt phát hành TPDN cho các mục đích trả nợ, trả lãi vay… |
TS. Lê Đạt Chí, Khoa Tài chính, UEH