Theo dự báo của Hiệp hội Viễn thông liên ngân hàng toàn cầu và tài chính quốc tế (SWIFT), phương thức thanh toán BPO sẽ thay thế hoàn toàn phương thức thanh toán L/C trong vài năm tới. Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cho thấy, phương thức thanh toán BPO đang được ngân hàng các nước lựa chọn áp dụng để dần thay thế cho phương thức thanh toán L/C. Số lượng các ngân hàng lựa chọn phương thức thanh toán BPO trong giao thương quốc tế đang không ngừng gia tăng, đến nay đã có 27 tập đoàn tài chính trên thế giới triển khai sử dụng phương thức thanh toán BPO.
Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán L/C
Trong nhiều thập kỷ qua, L/C được xem là phương thức thanh toán phổ biến trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Phương thức này được thực hiện theo Quy tắc thực hành thống nhất cho phương thức L/C (UCP) do Phòng Thương mại quốc tế (ICC) ban hành. Theo đó, mối quan hệ giữa các bên trong thanh toán theo phương thức L/C gồm có các chủ thể sau: Bên xuất khẩu, bên nhập khẩu, Ngân hàng phát hành/Ngân hàng Mở L/C và Ngân hàng Thông báo. Mối quan hệ của các chủ thể, quy trình thanh toán bằng phương thức L/C được mô tả tại Hình 1, cụ thể được triển khai tuần tự theo các bước sau:
(1) Người nhập khẩu căn cứ vào điều khoản thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế sẽ yêu cầu Ngân hàng Mở mở L/C;
(2) Ngân hàng Mở căn cứ vào đơn này sẽ mở L/C và gửi L/C cho Ngân hàng Thông báo;
(3) Ngân hàng Thông báo kiểm tra L/C và chuyển L/C cho người xuất khẩu;
(4) Người xuất khẩu giao hàng cho người nhập khẩu theo L/C quy định;
(5) Người xuất khẩu lập bộ chứng từ của lô hàng và giao cho Ngân hàng Thông báo;
(6) Ngân hàng Thông báo kiểm tra và gửi/xuất trình bộ chứng từ cho Ngân hàng Mở;
(7) Ngân hàng Mở sẽ kiểm tra chứng từ. Nếu bộ chứng từ phù hợp với L/C thì Ngân hàng Mở sẽ trả tiền/chuyển tiền cho Ngân hàng Thông báo;
(8) Ngân hàng Thông báo báo tiền đã vào tài khoản cho người xuất khẩu;
(9) Ngân hàng Mở sẽ xuất trình bộ chứng từ để người nhập khẩu kiểm tra;
(10) Người nhập khẩu xem xét chấp nhận trả tiền và Ngân hàng Mở L/C trao bộ chứng từ để người nhập khẩu có thể nhận hàng.
Ưu điểm đáng chú ý nhất của phương thức thanh toán bằng L/C đó là nhà xuất khẩu sẽ an toàn hơn trong việc nhận được tiền hàng do có sự đảm bảo của Ngân hàng Mở L/C, mặc dù nhà nhập khẩu không thanh toán được dưới bất kỳ lý do nào.
Mặc dù, L/C là phương thức đang được sử dụng rộng rãi trong hoạt động thanh toán quốc tế hiện nay, nhưng thực tiễn cho thấy, phương thức thanh toán này đang tồn tại nhiều vấn đề cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
Nhược điểm đáng chú ý nhất đó là L/C không phải là hình thức thanh toán an toàn tuyệt đối, vì việc thanh toán dựa trên cơ sở giao dịch các chứng từ văn bản. Việc thanh toán dựa vào chứng từ văn bản dẫn đến một số hạn chế sau: Chi phí chứng từ tốn kém; Ngân hàng phải kiểm tra tính chính xác của chứng từ; Việc kiểm tra thủ công sẽ có nhiều sai sót; Tốc độ thanh toán chậm; Dễ gặp rủi ro trong thanh toán, tranh chấp xảy ra; Chưa gắn kết được các chuỗi tài trợ và thanh toán với nhau… Những hạn chế trên cho thấy, phương thức thanh toán quốc tế dựa vào chứng từ văn bản đã dần lỗi thời, cần thiết phải có phương thức thanh toán mới thay thế, hiện đại và phù hợp với giao thương quốc tế trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0.
So sánh lợi thế của phương thức thanh toán BPO so với phương thức L/C
Nhằm khắc phục những nhược điểm của phương thức thanh toán L/C, một phương thức thanh toán mới đã ra đời, đó là phương thức thanh toán BPO. Phương thức BPO đã và đang dần được ngân hàng trên thế giới nghiên cứu áp dụng thay thế cho phương thức L/C. Nếu như phương thức L/C dựa vào bộ chứng từ văn bản, thì phương thức thanh toán này dựa vào bộ dữ liệu thương mại số. Phương thức thanh toán BPO được điều chỉnh bởi Quy tắc thống nhất đối với nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng (URBPO) được ICC thông qua vào ngày 17/4/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013.
BPO là một cam kết độc lập và không hủy ngang của ngân hàng có nghĩa vụ, còn gọi là Ngân hàng phát hành BPO. Ngân hàng này sẽ thanh toán ngay, hoặc cam kết thanh toán có kỳ hạn và thực hiện thanh toán khi đáo hạn một số tiền đã được xác định cho Ngân hàng thụ hưởng BPO (hay còn gọi là Ngân hàng tiếp nhận), sau khi so khớp thành công các dữ liệu điện tử theo quy trình, quy định của URBPO.
Phương thức thanh toán BPO về bản chất tương tự phương thức thanh toán L/C. Hai phương thức này có một số điểm giống nhau như: Các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong cả 2 phương thức thanh toán; Các ngân hàng đưa ra cam kết thanh toán không thể hủy ngang.
Bên cạnh những điểm giống nhau, 2 phương thức này có một số điểm khác biệt, sự khác biệt chính giữa L/C và BPO là: BPO hoạt động trong một môi trường hoàn toàn tự động, dựa vào việc so sánh và đối chiếu các mẫu in số hóa được chiết xuất từ các chứng từ giao hàng của người bán gửi cho người mua, điều này hoàn toàn tương phản với việc kiểm tra chứng từ bằng mắt thường của con người trên các chứng từ giao hàng bằng văn bản.
Quy trình thanh toán BPO được thực hiện tuần tự theo các bước sau:
(1) Bên nhập khẩu và bên xuất khẩu thỏa thuận sử dụng phương thức thanh toán BPO dựa trên điều khoản thanh toán của hợp đồng, sau đó bên nhập khẩu tiến hành gửi đơn đặt hàng cho bên xuất khẩu.
(2) Bên nhập khẩu cung cấp các dữ liệu từ đơn đặt hàng và các điều khoản về nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán (hay còn gọi là Ngân hàng phát hành BPO).
(3) Ngân hàng phát hành BPO phát hành BPO cho người thụ hưởng (Ngân hàng tiếp nhận BPO) và nêu rõ điều kiện thanh toán. Ngân hàng thụ hưởng BPO thông báo cho bên xuất khẩu về BPO. Bên nhập khẩu xác nhận dữ liệu từ BPO và gửi chấp nhận của mình đến Ngân hàng tiếp nhận BPO. Nếu cả 2 dữ liệu trùng khớp nhau, BPO sẽ được thiết lập, mỗi bên sẽ nhận được một bản thông báo về dữ liệu trùng khớp.
(4) Bên xuất khẩu vận chuyển hàng hóa theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
(5) Bên xuất khẩu gửi các dữ liệu về vận tải, hóa đơn cho Ngân hàng tiếp nhận BPO để tiến hành so khớp dữ liệu.
(6) Bên nhập khẩu nhận được thông báo về việc so khớp dữ liệu và có quyền chấp nhận lỗi không trùng khớp nào nếu có.
(7) Ngân hàng nhận BPO thông báo cho bên xuất khẩu về kết quả so khớp dữ liệu thành công.
(8) Bên xuất khẩu gửi chứng từ thương mại trực tiếp cho bên nhập khẩu để bên nhập khẩu nhận hàng hóa từ hải quan.
(9) Đến ngày đáo hạn, Ngân hàng phát hành BPO sẽ thanh toán cho Ngân hàng thụ hưởng BPO và sau đó Ngân hàng thụ hưởng BPO sẽ chuyển cho bên xuất khẩu theo thỏa thuận.
Các bức điện được gửi đi hay nhận lại phải đáp ứng tiêu chuẩn ISO 20022 đã đăng ký với Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế. Các bức điện này sẽ được tự động xử lý thông qua ứng dụng so khớp giao dịch (TMA) của SWIFT.
Nghiên cứu quy trình thực hiện BPO có thể thấy, BPO là một phương thức thanh toán an toàn trong thương mại quốc tế cho các nhà xuất khẩu. BPO an toàn hơn L/C, bởi vì các chứng từ điện tử không được kiểm tra bởi con người, qua đó loại bỏ được các rủi ro sai sót. Đồng thời, khi lựa chọn phương thức thanh toán BPO sẽ tiết kiệm chi phí hơn L/C, các nhà xuất khẩu có thể nhận được tiền rất nhanh từ các ngân hàng, vì các chứng từ điện tử được kiểm tra tự động thông qua ứng dụng TMA. Các nhà xuất khẩu có quyền kiểm soát hàng hóa nhiều hơn cho đến khi họ được các ngân hàng thanh toán, vì các chứng từ thương mại sẽ được các nhà xuất khẩu nắm giữ trong quá trình thực hiện BPO. Nhà xuất khẩu không gửi chứng từ văn bản cho các ngân hàng mà sẽ gửi trực tiếp cho nhà nhập khẩu khi nhận được tiền từ các ngân hàng… Theo đó, lợi ích so sánh của phương thức thanh toán BPO so với phương thức L/C có thể đề cập tới như sau:
Đối với nhà xuất khẩu
- Giảm thiểu rủi ro người mua hủy đơn hàng, rủi ro về ngân hàng phát hành hay rủi ro quốc gia.
- Bảo đảm ngân hàng người mua chịu rủi ro.
- Ngăn cản người mua từ chối thanh toán trường hợp người mua than phiền về chất lượng hàng hóa.
- Xử lý đơn giản và nhanh chóng nhờ so khớp dữ liệu được thực hiện tự động.
- Không phải kiểm tra chứng từ.
Trong số các lợi thế trên đây, quy trình so khớp dữ liệu là đặc điểm mang lại những lợi ích thực tế lớn nhất. Không phải kiểm tra chứng từ bằng tay và không có khái niệm sai sót hay tranh cãi trong kiểm tra chứng từ, bởi việc so khớp dữ liệu điện tử được thực hiện tự động hoàn toàn, không có sự can thiệp mang tính chủ quan của con người vào quy trình so khớp. Toàn bộ quy trình thanh toán được tự động hóa sẽ được thực hiện nhanh hơn, rẻ hơn thư tín dụng. Theo đó, các tranh chấp hay chậm thanh toán cũng sẽ giảm đi đáng kể.
Đối với nhà nhập khẩu
- Bên nhập khẩu được bảo vệ bởi ngân hàng đảm bảo chỉ thực hiện việc thanh toán khi các dữ liệu trích xuất từ các chứng từ thể hiện đúng thời hạn giao hàng, quy cách hàng hóa, chứng nhận xuất xứ, chất lượng… đúng theo yêu cầu của BPO.
- Có thể đàm phán giá cả thuận lợi hơn, các điều kiện thanh toán và tín dụng cao hơn từ phía người bán do việc thanh toán qua ngân hàng diễn ra nhanh chóng hơn so với phương thức tín dụng chứng từ.
- Nhận chứng từ thương mại nhanh chóng do chuyển trực tiếp từ người bán sang người mua, do đó không ảnh hưởng đến thời gian nhận hàng và không ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh.
- An toàn hơn phương thức chuyển tiền trả trước, người mua không phải trả tiền trước khi nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa.
- Tạo điều kiện tài chính cho người mua đối với các khoản trả chậm.
- Tăng cường mối quan hệ giữa người mua và người bán khi mở ra cơ hội hợp tác dài hạn và an toàn.
- Tăng khả năng cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước.
Đối với ngân hàng
Quy trình thực hiện BPO đơn giản hơn hầu hết các sản phẩm tài trợ thương mại khác. Đồng thời, bản chất kỹ thuật số của dòng thông tin sẽ giúp ngân hàng có thể nhìn thấy các sự kiện diễn ra trong chuỗi cung ứng, mở ra cơ hội phát triển các sản phẩm tài trợ thương mại đáp ứng nhu cầu của người bán và người mua.
Đề xuất, khuyến nghị
Có thể nói, BPO là phương thức thanh toán mang lại nhiều lợi ích cho tất cả các bên tham gia và đã được chứng minh bằng các giao dịch thực tế, tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có ngân hàng Việt Nam nào triển khai áp dụng phương thức thanh toán này. Để sẵn sàng hội nhập với cộng đồng các ngân hàng quốc tế, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cần sớm tìm hiểu và có những bước chuẩn bị cần thiết để có thể triển khai phương thức thanh toán BPO đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam.
Việc áp dụng phương thức thanh toán PBO không chỉ góp phần thúc đẩy giao thương quốc tế, mà còn khẳng định vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu thế phát triển chung của thế giới. Vì vậy, để triển khai thành công rộng rãi BPO tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, bên cạnh những bài học được đúc rút từ các kinh nghiệm thực tế của các ngân hàng trên thế giới, mỗi ngân hàng Việt Nam cần có chiến lược riêng, phối hợp hiệu quả với tổng hòa các nguồn lực nội tại. Thực tế cho thấy, để có thể triển khai phương thức thanh toán BPO, các ngân hàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cụ thể như:
- Về pháp lý, cần quy định cho phép các tổ chức liên quan chấp nhận hình thức chứng từ điện tử. Ví dụ, hải quan chấp nhận cho nhà nhập khẩu thông quan bằng chứng từ điện tử.
- Về công nghệ, ngân hàng cung ứng dịch vụ BPO cần đầu tư hạ tầng/hệ thống công nghệ có tương thích với điện ISO20022 cũng như hệ thống TMA.
- Về con người, ngân hàng cung ứng dịch vụ BPO cần đào tạo đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ BPO thì mới có thể cung ứng dịch vụ BPO.
- Vấn đề ứng dụng quản trị rủi ro theo Basel III đối với các công cụ tài trợ thương mại bao gồm BPO…
- Ngân hàng muốn trở thành một thành viên tham gia BPO trước tiên phải đăng ký với SWIFT. Các ngân hàng thành viên tham gia giao dịch BPO cũng phải tuân thủ theo URBPO và chấp nhận các quy định trong quy tắc này...
Tài liệu tham khảo:
1. Letters of Credit: Advantages and Disadvantages, Lorman Education Services, Lorman, December 2018;
2. Disadvantages of LC (letter of Credit) to Importer, how to export import, December 2018;
3. Advantages of Letter of Credit (LC) to exporters, howtoexportimport, December 2018;
4. Bank Payment Obligation - A new payment method, July 2016, SWIFT’s Corporate and Supply Chain Market Management team;
5. Bank Payment Obligation – BPO, October 2018;
6. Bank Payment Obligation – Comparison To Letter Of Credit And Open Account, J.P. Morgan.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 2/2020
ThS. Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Văn Lang