Chính phủ nhiều quốc gia từ Mỹ, Ấn Độ đến Australia đều đưa ra các cảnh báo về việc cần thiết phải bảo vệ các công ty thuộc ngành công nghiệp trụ cột, tránh bị nước ngoài mua lại. Cảnh báo này được đưa ra trong bối cảnh dịch Covid-19 đã khiến thị trường chứng khoán nhiều quốc gia giảm sâu, dẫn tới giá cổ phiếu ở mức thấp và trở thành miếng mồi ngon cho các tập đoàn khác thâu tóm.
Chỉ tính riêng tại Mỹ, dù chỉ số công nghiệp Dow Jones có phục hồi những ngày gần đây, nhưng so với cuối tháng 2, con số vẫn giảm tới 18%. Hàng nghìn tỷ USD giá trị thị trường của các công ty đã bị thổi bay. Điển hình như Boeing và Airbus, hai gã khổng lồ trong ngành hàng không của Mỹ và châu Âu, cũng đã mất gần 60% giá trị thị trường kể từ giữa tháng 2. Giá cổ phiếu của công ty năng lượng hàng đầu của Italy ENI và công ty khai thác mỏ lớn nhất Australia, BHP Group, đã giảm hơn 40% kể từ tháng 1.
Ngay lập tức, trong vài tuần qua, các quốc gia này đã đưa ra các biện pháp bảo vệ mới, bằng việc tăng cường đánh giá đầu tư nước ngoài, thậm chí cân nhắc xem có nên đầu tư góp vốn, mua lại cổ phần ở một số công ty chiến lược hay không.
Margrethe Vestager, người đứng đầu chính sách cạnh tranh của Liên minh châu Âu tháng trước đã đề xuất các nước châu Âu nên xem xét đầu tư, hỗ trợ hoặc mua lại cổ phần trong các công ty để chống lại mối đe dọa từ Trung Quốc, Financial Times đưa tin. “Chúng tôi không có vấn đề gì khi các chính phủ đóng vai trò là người tham gia thị trường nếu cần, nếu họ hỗ trợ mua cổ phần trong một công ty và nếu họ muốn ngăn chặn việc tiếp quản từ bên ngoài theo loại hình này”, bà Vestager nói.
“Một tác động lâu dài từ đại dịch là nó đã phơi bày những khu vực dễ bị tổn thương trong nền kinh tế, cho dù đó là sự phụ thuộc vào Trung Quốc về các thành phần dược phẩm hay phụ thuộc vào châu Âu về thiết bị y tế", ông Hunter, người từng làm việc tại Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ cho biết. "Nhận thức về những lỗ hổng này sẽ ảnh hưởng đến cách các chính phủ nhìn nhận đầu tư nước ngoài từ tất cả các khu vực, đặc biệt là Trung Quốc".
Trung Quốc không bị chỉ đích danh trong bất kỳ biện pháp mới nào, nhưng trong các cuộc thảo luận, không ít quan chức bày tỏ lo ngại về sự phụ thuộc quá mức vào quốc gia này, đặc biệt là trong các chuỗi cung ứng và nguồn nguyên liệu chính. Thậm chí, Ủy ban Châu Âu đã phải ban hành hướng dẫn đầu tư nước ngoài mới cho các quốc gia thành viên để bảo vệ tài sản, đặc biệt là trong ngành y tế, nghiên cứu, công nghệ sinh học và cơ sở hạ tầng.
Australia dù phụ thuộc nhiều vào thương mại với Trung Quốc cũng đã làm theo EU bằng cách yêu cầu mọi kế hoạch mua lại có liên quan đến nước ngoài đều phải trải qua quá trình đánh giá, sàng lọc kéo dài tới 6 tháng. "Nếu không có những thay đổi này, rất có thể nhiều doanh nghiệp có thể trụ vững bình thường của Australia sẽ bị bán cho nước ngoài mà không có sự giám sát của chính phủ, gây ra rủi ro cho lợi ích quốc gia", chính phủ Australia tuyên bố.
Trong khi đó, quá trình sửa đổi quy định đầu tư của Ấn Độ còn nhắm thẳng tới các quốc gia có chung đường biên giới trên bộ. "Động thái rõ ràng nhằm vào Trung Quốc", nhóm nghiên cứu của Viện Brookings cho biết.
Chỉ hai ngày sau quyết định của Ấn Độ, người phát ngôn của Đại sứ quán Trung Quốc tại New Delhi đã lên án quy định mới, nói rằng hành động này là chống lại thương mại tự do và công bằng, vi phạm các nguyên tắc không phân biệt đối xử của Tổ chức Thương mại Thế giới. "Tác động của chính sách đối với các nhà đầu tư Trung Quốc là rất rõ", phía Trung Quốc cho hay.
Là nước đầu tiên bị Covid-19 tấn công vào tháng 12, Trung Quốc đã buộc phải đóng cửa các nhà máy và doanh nghiệp. GDP nước này đã giảm 6,8% trong quý I, lần đầu tiên kể từ năm 1976.
Mặc dù vậy, một số nhà phân tích cho rằng các biện pháp chống dịch hà khắc của Bắc Kinh có thể đã giúp Trung Quốc nhanh chóng phục hồi về tài chính hơn các quốc gia phương Tây, giúp họ chiếm lợi thế trong việc theo đuổi các thương vụ mua lại chiến lược.
Selina Nguyễn (Theo SCMP)