[VÌ SAO PHẢI THANH TRA XUẤT KHẨU GẠO] (Kỳ 3) Đẩy doanh nghiệp vào HÊN - XUI

[VÌ SAO PHẢI THANH TRA XUẤT KHẨU GẠO] (Kỳ 3) Đẩy doanh nghiệp vào HÊN - XUI
Trước những phản ứng khá dữ dội của doanh nghiệp, Bộ NN&PTNT phản hồi rằng, sản lượng lúa ổn định thì không cần thiết phải dừng xuất khẩu, Bộ Công Thương “đổ lỗi” bất cập từ mở tờ khai hải quan?

Trước khi ban hành mỗi chính sách, việc đánh giá tác động của chính sách đối với xã hội và các nhóm chủ thể là rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể và giúp chính sách được thực thi có hiệu quả.


Rất dễ để nhận thấy sự lúng túng từ phía các cơ quan quản lý nhà nước trong bối cảnh cần đưa ra các chính sách nhanh và hợp lý liên quan đến việc điều hành xuất khẩu gạo trong những tình thế cấp bách. Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân cũng như các giải pháp để khắc phục những bất cập trong chính sách sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy thị trường xuất khẩu gạo phát triển bền vững.

Thiếu cơ sở dữ liệu quốc gia về lúa gạo.

Để ban hành một chính sách đúng đắn thì phải dựa trên một cơ sở dữ liệu chuẩn xác. Vì thế, việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu của bất cứ ngành nghề nào cũng hết sức quan trọng. Trong văn bản kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương vẫn cần thời gian “đánh giá lại sản lượng thực tế của vụ Đông Xuân, lượng hợp đồng xuất khẩu đã ký cũng như lượng tồn kho thực tế của các doanh nghiệp” đã chứng tỏ, công tác xây dựng và quản lý dữ liệu quốc gia về lúa gạo chưa được coi trọng và đánh giá đúng mức, sự phối hợp giữa các Bộ ngành liên quan với UBND các tỉnh về vấn đề cân đối nguồn thóc, gạo còn rất hạn chế. Điều 11 Nghị định 107/2018 về kinh doanh xuất khẩu gạo quy định về cân đối nguồn thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu quy định:

“1. Hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện cân đối nhu cầu tiêu dùng thóc, gạo trong nước, công bố vào quý IV hàng năm nguồn thóc, gạo hàng hóa có thể xuất khẩu trong năm kế hoạch tiếp theo; cập nhật và thông báo với Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hiệp hội Lương thực Việt Nam về tình hình sản xuất, sản lượng, nguồn thóc, gạo hàng hóa có thể xuất khẩu theo từng chủng loại, mùa vụ trong năm. Việc điều hành xuất khẩu gạo thực hiện trên cơ sở nguồn thóc, gạo hàng hóa được cân đối cho xuất khẩu hàng năm theo quy định tại khoản 1 Điều này".

Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc xây dựng dữ liệu về lúa gạo đã rất rõ ràng, trách nhiệm của cac Bộ, ngành đã rất cụ thể nhưng trên thực tế việc thực thi vẫn thiếu sự quan tâm dẫn đến sự lúng túng hoặc đưa ra những chính sách thiếu chuẩn xác. Sản lượng lúa gạo hoàn toàn có thể tính toán được một cách tương đối bằng cách nhân diện tích trồng lúa với sản lượng quy đổi trên mỗi héc ta, cộng với sản lượng gạo nhập khẩu và trừ đi sản lượng tiêu thụ nội địa và sản lượng xuất khẩu, với cách tính này đã có thể có dữ liệu để ban hành một chính sách khá sát với thực tế, mặt khác, trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lúa gạo là rất dễ dàng và thuận tiện. Để cải thiện vấn đề này, trước hết cần gánh trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan hữu quan, xây dựng cơ chế phối hợp liên hành chi tiết và đặc biệt, xây dựng nền tảng cũng như cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp cùng tham gia. Đây là đòi hỏi rất cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.

Thiếu đánh giá tác động chính sách.

Trước khi ban hành mỗi chính sách, việc đánh giá tác động của chính sách đối với xã hội và các nhóm chủ thể là rất quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như giúp cho chính sách được thực thi có hiệu quả.

Việc Bộ Công thương kiến nghị Thủ tướng chính phủ thay đổi chính sách với lý do “Sau khi tiếp nhận phản ánh của một số doanh nghiệp” và “đánh giá lại lượng hợp đồng  đã ký và tồn kho thực tế của các doanh nghiệp” cho thấy công tác đánh giá tác động của chính sách đối với doanh nghiệp chưa được quan tâm, dừng xuất khẩu gạo trong khi chưa thống kê các hợp đồng các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã ký kết với các đối tác nước ngoài có thể đẩy doanh nghiệp vào những tổn thất rất lớn khi phải đối mặt với việc phạt vi phạm hợp đồng thậm chí là bồi thường thiệt hại, đó là chưa kể đến các chi phí thuê kho bãi, chi phí trả lãi vay ngân hàng khi thu mua gạo để xuất khẩu, điều này cũng có thể làm giảm uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam trong giao kết quốc tế.

Việc bảo đảm an ninh lương thực trong bối cảnh dịch bệnh là rất cần thiết nhưng rõ ràng, bắt một số ít chủ thể phải hy sinh quyền lợi và gánh chịu rủi ro vì mục tiêu chung không phải là giải pháp hợp lý. Vì thế để nâng cao chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh cũng như hài hòa lợi ích nhà nước và lợi ích của các doanh nghiệp, khi ban hành một chính sách, rât cần chú trọng đến việc đánh giá tác động của chính sách để có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ doanh nghiệp.

Tags: Lúa Gạo Xuất Khẩu Chính Sách